Sau khi chết 7 ngày, hồn người chết có thực sự trở về nhà không? Nếu có, hãy làm 5 điều này cho họ

Theo phong tục dân gian, khi trong nhà có người qua đời cần bảo quản linh cữu trong nhà 3 ngày rồi mới mang đi mai táng. Người ta quan niệm linh hồn người chết sau 7 ngày sẽ trở về nhà, gọi là “tuần thất đầu tiên”. Nhiều người vẫn bán tín bán n

Theo phong tục dân gian, khi trong nhà có người qua đời cần bảo quản linh cữu trong nhà 3 ngày rồi mới mang đi mai táng. Người ta quan niệm linh hồn người chết sau 7 ngày sẽ trở về nhà, gọi là “tuần thất đầu tiên”. Nhiều người vẫn bán tín bán nghi rằng, liệu sau khi chết đi, linh hồn người ta có thể thực sự trở về dương gian được không?

Trong phong tục tang lễ của người xưa, “đầu thất” là chỉ ngày thứ 7 sau khi người chết tạ thế. Mọi người đều tin rằng vào ngày “đầu thất”, linh hồn người chết sẽ trở về nhà. Người nhà cần chuẩn bị một mâm cơm, sau đó trốn đi trước khi linh hồn người thân trở về (có thể trốn trong chăn, hoặc đi ngủ).

Nếu hồn nhìn thấy người nhà sẽ tưởng nhớ không muốn rời đi, từ đó ảnh hưởng tới việc đầu thai. Lại có người nói vào giờ Tý của ngày “đầu thất” người nhà nên đốt một đồ vật có giống như hình cái thang để linh hồn có thể theo chiếc thang này lên trời.

Theo kinh Địa Tạng, thần thức của một người sau khi chết hầu hết đều phải trải qua giai đoạn trung gian. Tuổi thọ của thân trung ấm (nôm na là sự sống sau khi chết) tối đa là 49 ngày, sau đó người chết sẽ thọ sinh vào một cảnh giới tương ứng với nghiệp lực mà họ đã gây tạo.

Ngày thứ 7 sau khi con người mất đi được gọi là “đầu thất”. Cứ tính lần lượt theo thứ tự tổng cộng là bảy bảy 49 ngày và cứ hết 7 ngày được tính là một “tuần thất”. Trong tuần thất đầu tiên, thời gian linh hồn trở về dương gian là từ giờ Tý tới giờ Hợi.

Bởi vậy điều đầu tiên người nhà cần chú ý là giữ tâm thái tưởng nhớ tới người chết và đừng vì những chuyện nhỏ trong gia đình dẫn tới mâu thuẫn to tiếng, cãi cọ. Bởi vì làm vậy sẽ khiến linh hồn người chết thấy đau lòng, tiếc nuối, lưu luyến cõi hồng trần mà không muốn rời đi.

Người sau khi qua đời vì sao phải cúng thất? Có rất nhiều người hỏi vấn đề này, vì sao phải làm thất? Người vãng sinh (đến thế giới Cực Lạc) và người sinh thiên (chuyển sinh ở cõi trời) đều không có thân trung ấm thì không cần làm thất. Thế nhưng người thông thường nghiệp chướng sâu nặng thì đều có thân trung ấm.

Con người trong cõi nhân sinh ai cũng phải trải qua lục đạo luân hồi (6 nẻo luân hồi). Khoảng thời gian bắt đầu từ khi con người chết đi cho tới khi đi đầu thai chuyển sinh gọi là giai đoạn “Thân trung ấm”.

Ví dụ như một đứa trẻ trong thời gian ở âm gian đợi cơ duyên chuyển sinh cứ 7 ngày được tính là một kỳ. Nếu 7 ngày kết thúc vẫn chưa tìm được cơ duyên chuyển sinh thì tiếp tục đợi 7 ngày nữa, cứ như vậy trong vòng 49 ngày. Do vậy trong giai đoạn này cần phải cúng lễ siêu độ cho họ.

Trung ấm thông thường tồn tại 49 ngày, chính là 7 lần 7. Trong thời gian trung ấm thì cứ 7 ngày, người chết lại có một lần biến dị sinh tử, cũng chính là nói họ cứ 7 ngày thì có một lần rất đau khổ.

Bởi thế, con người cũng nhất định không được tự sát. Tự sát thì vô cùng thống khổ, vì sao vậy? Hễ là người tự sát mà chết thì thân trung ấm mỗi 7 ngày một lần lại phải tự sát một lần. Nó không phải làm một lần rồi xong mà mỗi 7 ngày thì phải diễn lại một lần, rất khổ sở. Thí dụ như treo cổ mà chết, mỗi lần cách 7 ngày họ lại phải treo cổ một lần. Uống thuốc độc mà chết thì cách 7 ngày họ lại phải uống độc một lần…

Trong thời gian thọ thân trung ấm, hương linh vẫn thọ dụng được tất cả những vật phẩm mà thân nhân dâng cúng (thường là cơm, nước, hương, hoa) nhưng chỉ hưởng mùi vị của thức ăn mà thôi. Vì thế, thân trung ấm còn được gọi là hương ấm (thọ dụng mùi hương của thực phẩm). Cho nên trong vòng 49 ngày, thân nhân cần dâng cúng cơm nước hàng ngày cho người chết để họ được no đủ. Đặc biệt vào những ngày tuần thất thường cúng kính trang trọng hơn như đến chùa hoặc thỉnh chư tăng về nhà làm lễ cầu siêu cho người quá vãng.

Sau 49 ngày, khi thần thức tìm được cảnh giới tái sinh, thường thì họ sinh về một trong sáu cõi của lục đạo (Trời, A Tu La, người, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục) và từ đây sự thọ dụng của họ có khác biệt. Đơn cử như nếu thần thức sinh vào cõi Trời thì họ sẽ không ăn thực phẩm của cõi người. Vì thực phẩm ở cõi trời có vị cao cấp hơn rất nhiều lần. Hoặc nếu họ đọa vào địa ngục thì cũng không thể thọ dụng được thực phẩm của loài người vì bị hành hạ, phải ăn hòn sắt nóng, uống nước đồng sôi, chịu nhiều đau khổ cùng cực… Duy chỉ có các chúng sinh trong loài quỷ thần thì vẫn có thể “ăn” được những phẩm vật do thân nhân dâng cúng.

Theo bạn, người ta khi chết đi liệu có phải là kết thúc, chấm hết? Có rất nhiều người vì tin vào khoa học thực chứng mà tin rằng linh hồn là không tồn tại. Tuy nhiên thực sự không phải vậy, dưới đây là một câu chuyện bản thân tôi đã được tận mắt chứng kiến trong đám ma của bà ngoại mình.

Theo phong tục ở các làng quê Việt Nam, khi trong nhà có người qua đời, con cháu phải túc trực bên linh cữu 3 ngày rồi mới được đưa đi mai táng. Quê tôi cũng không ngoại lệ nhưng khi mai táng xong gia đình còn mời pháp sư về làm một nghi lễ gọi là “Lê kiều vong”. Bà ngoại tôi mất năm 79 tuổi không phải vì bệnh tật mà vì tuổi già. Khi còn sống bà còng gập lưng nên lúc nào bên cạnh cũng phải có một cây gậy trúc.

Còn có một phong tục nữa là nếu trong nhà có ai không may qua đời vào “giờ trùng” thì khi đào huyệt sẽ phải đào 2 cái. Một cái huyệt giả, nông gọi là thiên di và một cái huyệt thật. Khi mai táng họ sẽ đưa linh cữu người quá cố qua huyệt thiên di đó trước rồi mới an táng tại huyệt thật. Lại nói về lúc đưa bà đi mai táng, cậu tôi vốn có tật ở chân, hôm đó nằm mệt nên không đi được.

Dì tôi chặt một cành tre và dán giấy màu trắng lên đó như hình cái thang rồi đưa cho thầy pháp sư. Pháp sư bày lễ trước sân nhà với hoa quả và những đồ chay thông thường trên một chiếc bàn. Ông ngồi đó tụng kinh trong vòng 3 tiếng đồng hồ rồi từng người con trong nhà sẽ phải ngồi bên cạnh thầy cầm cành trúc đó.

Nếu cành trúc rung lên là báo hiệu linh hồn người mất đã nhập vào người đang giữ cành trúc. Khi đó sẽ làm lễ để đưa vong đó ra mộ. Hôm đó là một ngày tháng 7 nóng bức, trời cũng đã nhá nhem tối, từng người từng người ngồi cầm cành trúc mà vẫn không thấy nó rung lên.

Mọi người đều lo lắng không biết quá trình làm lễ xảy ra chuyện gì. Có những linh hồn về còn trách mắng con cái khi sống đã đối xử tệ với mình. Còn hồn bà ngoại tôi thì sao nhỉ? Tôi tò mò không hiểu sau khi bà mất 3 ngày sẽ về nói với con cháu những gì.

Mãi tới hơn 6h tối, tôi mới thấy anh họ mình từ ngoài ngõ chạy vào bảo mọi người rằng hồn bà đang trên nhà cậu tôi. Mọi người chạy vội lên nhà thì thấy cậu đang nằm khóc. Pháp sư dỗ dành và đưa cậu xuống nhà bà để ngồi cầm cành trúc đó. Tôi thấy cậu cứ khóc và mếu máo: “Đã bảo không muốn đi rồi mà còn sai người tới bắt đi”. 

Khi xuống nhà, tôi thấy dáng đi của cậu còng còng như bà ngoại mà chân lại không còn bị dị tật nữa, hoàn toàn như thường. Cậu đi vào phòng nơi bà tôi đã nằm trước khi qua đời rồi hỏi: “Gậy của bà đâu?“. Mọi người đưa cho cậu cây gậy mà bà còn dùng khi sống, sau đó cậu đi quanh nhà nhìn một vòng và chỉ khóc.

Pháp sư bảo: “Bà cầm lấy cành trúc này, mọi người sẽ tiễn bà về nhà mới nhé”. Thế là mọi người đưa bà ra mộ. Dừng lại bờ ruộng, cậu tôi cầm cành trúc đi vòng qua mộ thiên di giả một vòng rồi đi ra. Cậu lại đi tới ngôi mộ thật của bà và rồi cầm một nắm đất ném xuống dưới. Lúc này pháp sư liền lập tức lấy rượu vẩy vào người cậu, vỗ mạnh một cái làm cậu ngã xuống. Một lúc sau cậu trở dậy bình thường.

Khi trở dậy, mọi người hỏi đã nhìn thấy gì, cậu bóp trán hồi lâu kể lại: “Cậu đang nằm thì cảm giác như có một luồng hơi lạnh tiến lại thân thể và cứ lưu luyến, khóc lóc không muốn ra khỏi nhà nhưng như có ai đó bắt ép phải đi. Trên đường từ nhà ra mộ bà, cậu chỉ thấy một vệt sáng và cứ đi theo vệt sáng chỉ đường ấy”. 

Nguồn: ĐKN (Kiên Định)